Mục Sư Có Thẩm Quyền Gì?

Mục Sư Có Thẩm Quyền Gì?

Tám Nguyên Tắc cho Hội Thánh Địa Phương

Tác giả Jonathan Leeman

Để trả lời cho câu hỏi, “Mục sư có thẩm quyền gì?” bạn phải chọn một lập trường trong các cuộc tranh luận cộng đồng. Tôi chọn chủ nghĩa tập thể do trưởng lão lãnh đạo. Tuy nhiên, tôi cho rằng nhiều Cơ-đốc nhân và mục sư tránh đề tài về cộng đồng này vì đây là lĩnh vực chưa ngã ngũ. Có thể họ thấy chủ đề này không quan trọng để bàn luận. 

Bên cạnh đó, liệu chúng ta có thể đọc I Ti-mô-thê, II Ti-mô-thê, Tít và những phân khúc khác như Công vụ 20:17-38 và I Phi-e-rơ 5:1-4, để có thể dễ dàng trả lời câu hỏi này hay không? Các trưởng lão có (1) một thẩm quyền giám sát trên hội thánh cũng như (2) thẩm quyền dạy dỗ và thực hiện các lễ nghi trong hội thánh. Điều này rất hiển nhiên. Giáo hội Báp-tít, Trưởng lão, Lutheran, Anh giáo và những hội thánh độc lập được lãnh đạo bởi trưởng lão đều đồng ý với điều này.

Thêm vào đó, giáo hội Tin lành đồng ý rằng các mục sư hoặc trưởng lão (tôi dùng các thuật ngữ có thể thay thế qua lại cho nhau) không có thẩm quyền tha thứ tội lỗi.  Chúng ta đồng ý rằng họ không phải là một nhóm người được biệt riêng ra cho công tác hòa giải. Martin Luther đã nhấn mạnh, “Thật sự không có sự khác biệt giữa giáo dân và các mục sư… ngoại trừ chức vụ và công việc, nhưng không phải ‘đẳng cấp’; vì tất cả đều cùng một đẳng cấp” (Works of Martin Luther, 2:69). Và chúng ta đồng ý rằng họ không bao giờ có thể được ngồi vào vị trí gọi là “chiếc ghế của Phi-e-rơ,” và nói những điều đúng một cách tuyệt đối có thẩm quyền ngang với Kinh Thánh. Mục sư có thể phạm sai lầm, và những lời họ nói phải được kiểm tra xem có đi ngược lại với lời Chúa hay không như cách mà các người Bê-rê đã làm (Công vụ 17:11). Chúng ta hãy xem cách chính Phi-e-rơ đã làm rối loạn thể nào (vd., Ga-la-ti 2:11-14).

Những điểm đồng thuận này rất quan trọng. Cái nhìn sai lầm về thẩm quyền mục sư có thể phá hoại phúc âm (qua việc xem mục sư như những thầy tế lễ hòa giải có quyền ban ân điển cho con người) và phá hoại Kinh Thánh (khi xem lời của họ có thẩm quyền ngang với Kinh Thánh). Vì thế hãy ngợi khen Đức Chúa Trời vì sự đồng lòng này.

Tuy nhiên, bên trong hội thánh Tin Lành, hiện đang nổi lên những sự khác biệt ảnh hưởng đến công tác môn đồ hóa Cơ-đốc và ích lợi của hội thánh. Để minh họa, hãy nghĩ đến sự khác nhau giữa chế độ quân chủ và dân chủ. Những sự khác biệt về cấu trúc rộng hơn đó ảnh hưởng đến thẩm quyền của “những người lãnh đạo” cũng như văn hóa và đời sống công dân của mọi người. Tôi không cho rằng sự khác biệt trong Tin Lành mãnh liệt như chế độ quân chủ với dân chủ. Mấu chốt đơn giản là bối cảnh cấu trúc lớn hơn định hình thẩm quyền mà người trưởng lão – mục sư có. Do đó, chúng ta phải cân nhắc vấn đề này.

Với những yếu tố này, hãy xem xét một nguyên tắc về bối cảnh và bảy nguyên tắc về thẩm quyền của mục sư.

Thẩm Quyền Hội Chúng

Nguyên tắc 1: Hội chúng là nhóm người có thẩm quyền chức tế lễ cuối cùng để xác nhận phúc âm là gì và người tin phúc âm là ai – sự xưng tội và người xưng tội.

Những người Tin Lành từ phía Martin Luther và John Calvin đến Giáo hội Trưởng lão Mỹ (PCA) và Giáo hội Báp tít Nam Phương (SBC) đều đồng ý rằng mỗi Cơ-đốc nhân là một thầy tế lễ. Điều này được thể hiện trong cuộc bầu cử. Nó cũng có nghĩa là bất kỳ tín hữu nào cũng có thể làm phép báp-têm trong trường hợp bất khả kháng. Mục sư Luther nói thế này, “Nếu cần thiết, bất cứ ai cũng có thể làm phép báp-têm…là điều mà không thể xảy ra nếu tất cả chúng ta không phải đều là thầy tế lễ” (67). Phải chăng bất cứ người tin Chúa nào cũng đều có thể phân giải được Kinh Thánh: “Một người bình thường có thể có sự hiểu biết thực sự; tại sao chúng ta không theo người đó” và chống lại bất kỳ sai lầm nào của giáo hoàng và linh mục (74)? Người tin Chúa nào cũng đều có thể khiển trách giáo hoàng hoặc những Cơ-đốc nhân khác khi người đó phạm tội: “Nhưng nếu tôi phải cáo buộc người đó trước Hội thánh, thì tôi phải đem Hội thánh lại trong sự hiệp một” (76-77).

Chức tế lễ của tất cả những người tin Chúa, đối với một người Tin Lành, nghĩa là thẩm quyền của hội thánh hoàn toàn bắt nguồn từ sự hiệp nhất của các tín hữu với Đấng Christ. James Bannerman, thuộc Giáo Hội Trưởng Lão thế kỷ XIX, viết như sau, “Sự ban cho quyền năng chính yếu từ Hội thánh của Đấng Christ là hầu như, nếu không nói là rõ ràng và chính thức, được ban cho các tín hữu để có thể làm được mọi điều, dầu thuộc về hiện tại hay tương lai, để thuộc về họ trong Chúa Jesus Christ” (The Church of Christ, 272). Xét cho cùng, thì một hội thánh trên hoang đảo nếu các mục sư đều chết hết thì “hội thánh đó phải có trong mình tất cả quyền lực có thẩm quyền để thực hiện các chức năng và chức vụ cần thiết của một Hội thánh” (273).

Tuy nhiên, ngoài lập trường chung này, những người theo chủ nghĩa tập thể và những người không theo chủ nghĩa tập thể khác nhau. Những người ủng hộ hội thánh do trưởng lão lãnh đạo (không theo chủ nghĩa tập thể) – như Bannerman và Luther và các hội thánh Anh giáo hay hội thánh độc lập bạn biết – đưa ra một số quan điểm gây tranh cãi rằng, ngay cả khi toàn thể hội thánh theo nghĩa chính thức nào đó sở hữu thẩm quyền cuối cùng, thì thẩm quyền đó được trao cho các trưởng lão để thực thi. Chẳng hạn, chúng ta có thể thấy sự khác biệt này giữa việc sở hữu và thực thi trong quyển giáo nghi của hội thánh, cả Hội thánh Tin lành Trưởng lão (PCA) lẫn Hội thánh Trưởng lão Chính thống (OPC).

Tuy nhiên, một người theo chủ nghĩa tập thể do trưởng lão lãnh đạo giống tôi, sẽ phản biện lại rằng, nếu bạn không thể thực thi thẩm quyền, thì về mặt logic, bạn không có thẩm quyền. Nhưng đừng bận tâm vào tính logic. Trong Ma-thi-ơ chương 18, rõ ràng Chúa Jesus đã trao chìa khóa vương quốc thiên đàng cho hội chúng khi nhóm nhau lại để phát xét về điều gì và về ai trên nền tảng Phúc âm – sự xưng tội và người xưng tội (Ma-thi-ơ 18:17-18; xem thêm 16:19).  Và trong Tân Ước không có nơi nào ghi rằng quyền này được trao riêng cho các mục sư. Thật vậy, Phao-lô kêu gọi hội thánh tại Cô-rinh-tô hãy sử dụng thẩm quyền này với “năng quyền” của Chúa Jesus khi họ “nhóm lại” (I Cô-rinh-tô 5:4). Ông không bảo các trưởng lão hãy dùng quyền này vào buổi họp của các trưởng lão vào tối thứ Năm. Tương tự, ông không nói với các mục sư tại Ga-la-ti mà ông nói với các hội thánh tại Ga-la-ti hãy công bố bất cứ ai giảng dạy một giáo lý giả là “đáng bị rủa sả” hoặc a-na-them (Ga-la-ti 1:9).

Điều này mang ý nghĩa, là Cơ-đốc nhân, nếu một trong các mục sư giảng dạy giáo lý sai lạc, thì việc bạn phải làm là cùng với các thành viên khác trong hội thánh sa thải người đó. Và nếu bạn không thực hiện, thì bạn sẽ phải chịu trách nhiệm trước mặt Đấng Christ vào ngày phán xét.

Chức tế lễ của tất cả các tín hữu trong một hội chúng được lãnh đạo bởi các trưởng lão là ngữ cảnh phù hợp với những điểm sau đây.

Trọng Tâm của Thẩm Quyền Mục Vụ

Nguyên tắc 2: Mục sư có thẩm quyền hướng dẫn hội chúng nhận biết cần phải xưng tội gì và người xưng tội nào cần xác định.

Nếu hội chúng là tập thể đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên giáo lý đúng đắn, thì cách diễn dịch và dạy dỗ Kinh Thánh của ai sẽ được xem là cách giải thích của hội thánh? Có thể thành viên này có cách giải thích thế này, thành viên kia lại có cách giải thích khác. Nếu sự phát quyết của hội thánh như một toàn thể ràng buộc từng thành viên trong hội thánh, thì cách giải thích của ai sẽ ràng buộc hội thánh như một tập thể?

Câu trả lời: cách giải thích của các trưởng lão. Họ là những người nói, “Thưa Hội thánh, đây là những giáo điều chúng ta tin.” Và hội chúng chính thức khẳng định, “Đúng vậy, đó là những giáo điều chúng tôi tin,” làm cho những giáo lý đó trở nên chính thức và ràng buộc (Ma-thi-ơ 18:19). Hội chúng đưa ra phán quyết cuối cùng về những vấn đề liên quan đến giáo lý và tư cách thành viên, nhưng các trưởng lão là người hướng dẫn hoặc cho hội chúng biết cần phán quyết như thế nào. Đây là lý do tại sao các trưởng lão thường rao giảng và dạy dỗ. Và tại sao họ thường chủ trì các lễ nghi và các buổi nói chuyện riêng với tín hữu và những việc khác. Họ là những người chăn bầy đứng tại cánh cổng chuồng chiên.

Hãy xem lại I Cô-rinh-tô chương 5. Phao-lô cho chúng ta biết ông “đã đưa ra phán quyết” người đã ngủ với mẹ vợ của mình bằng việc: trừ bỏ người đó (câu 3). Nhưng việc đó đã được thực thi chưa? Chưa. Ông kêu gọi hội thánh hãy “xét đoán” người đàn ông này như vậy (câu 12). Tôi tin rằng Phao-lô đang hành xử như một mục sư. Ông cho chúng ta thấy mối liên hệ giữa thẩm quyền của trưởng lão với thẩm quyền của hội chúng. Hội chúng giữ quyền quyết định cuối cùng, nhưng các mục sư là người cho họ biết cần phải quyết định như thế nào.

Mở Rộng Thẩm Quyền Mục Vụ

Nguyên tắc 3: Thẩm quyền giám sát của mục sư bao gồm những lĩnh vực khác ảnh hưởng đến toàn thể hội thánh.

Mục sư cũng có thẩm quyền giám sát những quyết định khác của hội chúng. Hãy nghĩ đến câu chuyện những góa phụ Hi-lạp bị phớt lờ sự cấp phát lương thực hàng ngày trong Công vụ chương 6. Đây là một vấn đề lớn. Hội thánh đang bị chia rẽ, và những người góa phụ không có thức ăn. Một tình thế nguy hiểm. 

Do vậy, các sứ đồ, là những người thường cầu nguyện và giảng dạy hơn, đã bắt tay vào và đưa ra phương án giải quyết. Phương cách này có sự cộng tác nhiều của hội chúng, nhưng các sứ đồ, hành động như những mục sư giỏi, ở vai trò quan sát.

Tương tự, mục sư và các trưởng lão không nên dự phần vào những công việc hành chánh chi tiết, chẳng hạn như việc lựa chọn màu sắc của tấm thảm cho lớp học Trường Chúa Nhật, hoặc việc các y tá tình nguyện có nên mặc áo thun đồng phục hay không (các trưởng lão hội thánh tôi từng quyết định vấn đề này). Nói tóm lại, họ chỉ nên tham gia vào những quyết định ảnh hưởng đến toàn thể hội thánh và quá trình phát triển mục vụ. Chúng ta có nên mở lớp Trường Chúa Nhật không? Chúng ta nên giảng dạy theo bản dịch Kinh Thánh nào? Hội thánh của chúng ta có nên hỗ trợ Joe và Kathy trong cánh đồng truyền giáo hay không?

Bản Chất của Thẩm Quyền Mục Vụ

Nguyên tắc 4: Thẩm quyền mục vụ là bắt buộc về mặt đạo đức, nhưng không ràng buộc về mặt cấu trúc.

Trong một chừng mực nào đó khi hội thánh là một tổng thể đang nắm giữ chìa khóa thiên đàng để đóng và mở trên đất những gì đóng và mở trên thiên đàng, thì những quyết định của hội chúng đang ràng buộc cách hiệu quả – ở cấp độ cấu trúc. Khi họ khai trừ một thành viên khỏi hội thánh như một hình thức dứt phép thông công, thì người đó thật sự bị khai trừ, cho dù người đó đồng ý hay không. Hội chúng có cái quyền mà tôi gọi là thẩm quyền ra lệnh.

Tuy nhiên, các trưởng lão thì lại giữ một thẩm quyền khác, là thẩm quyền khuyên bảo. (Giống như vai trò của người chồng). Thẩm quyền khuyên bảo là một thẩm quyền thực tế. Về phương diện đạo đức nó bắt buộc các thành viên vâng phục, và Chúa Jesus không chấp nhận sự bất tuân (xem Hê-bơ-rơ 13:7, 17). 

Hậu quả hiện hữu. Tuy nhiên các trưởng lão không thể bỏ qua những hậu quả đó, vì liên quan đến ngày cuối cùng. Chúa Jesus phát xét họ.

Chắc chắn là, các trưởng lão phải dừng công việc của một người hướng dẫn chỗ ngồi trong nhà thờ nhưng có lời nói thô lỗ hoặc phê duyệt buổi dã ngoại của hội thánh hoặc lập kế hoạch cho các buổi giảng dạy. Nhưng một mục sư không thể mời bạn đến văn phòng của ông và tự mình dứt phép thông công bạn được, ít nhất là nếu ông muốn làm theo lời Kinh Thánh. Cũng như ông không thể quyết định tư cách của thành viên nào đó mà không thông qua hội thánh. Tư cách thành viên phải được sự đồng ý của toàn thể hội thánh. Đó là hàm ý khi tôi nói thẩm quyền mục vụ là bắt buộc về mặt đạo đức, nhưng không ràng buộc về mặt cấu trúc.

Sự thật rằng các trưởng lão (và những người chồng) có thẩm quyền khuyên bảo và không phải kiểu ra lệnh mạnh mẽ cho chúng ta thấy thẩm quyền này được dùng như thế nào. Trong khi một phụ huynh có thể bảo một đứa con 3 tuổi đi ngủ “ngay lập tức,” thì các trưởng lão phải dạy dỗ với thái độ “rất nhịn nhục” (II Ti-mô-thê 4:2). 

Họ đang hành động để phát triển dần dần, chơi một trò chơi lâu dài. Mục tiêu không phải ép buộc đưa ra quyết định nhưng là để khuyến khích các thành viên trong hội thánh tái sinh có những quyết định đúng đắn cho chính họ. Như Phao-lô nói với Phi-lê-môn, “Vậy nên, dầu trong Đấng Christ, tôi có quyền truyền dạy anh việc nên làm, song vì lòng yêu thương của anh, nên tôi nài xin thì hơn” (Phi-lê-môn 8-9).

Ở đây có một điểm phân biệt quan trọng nhất liên quan đến sự khác nhau về mặt cộng đồng giữa những người Tin Lành. Các hội thánh dẫn dắt bởi trưởng lão, cho dù cấu trúc là tự lập hay trưởng lão hoặc giám mục, thì đều cho các trưởng lão thẩm quyền ra lệnh. Chẳng hạn, các trưởng lão có thể đơn phương dứt phép thông công các thành viên. Mặt khác, những người theo chủ nghĩa hội thánh nhỏ như Báp-tít không tin rằng họ có thể làm vậy. Và điểm khác nhau này ảnh hưởng đến văn hóa hội thánh và bản chất của việc môn đồ hóa. 

(Để biết thêm về sự khác nhau giữa thẩm quyền khuyên bảo và ra lệnh, xem chương 11 trong quyển Thẩm quyền – Authority của tôi.)

Mục Đích của Thẩm Quyền Mục Vụ

Nguyên tắc 5: Các mục sư có thẩm quyền trang bị hội thánh và từ bỏ thẩm quyền của chính họ.

Dựa trên điểm cuối cùng, thẩm quyền khuyên bảo hiệu quả hơn đối với việc môn đồ hóa.

Thử tưởng tượng hai lớp học thể dục. Ở lớp số 1, huấn luyện viên làm mẫu động tác burpees và squats, sau đó tan học. Ở lớp số 2, huấn luyện viên làm mẫu động tác burpees và squats, và yêu cầu bạn làm thử và họ góp ý. Ở lớp nào bạn được huấn luyện tốt hơn?

Bây giờ chúng ta xem xét hai hội thánh. Ở một hội thánh được lãnh đạo bởi các trưởng lão, các trưởng lão họp riêng với nhau để đưa ra những quyết định kỷ luật trong hội thánh. Trong khi ở các hội thánh phi hệ phái, các trưởng lão chỉ giải thích vấn đề một cách đầy đủ chi tiết để hội thánh đưa ra phán quyết liêm chính, nhưng không quá chi tiết khiến hội thánh dễ vấp phạm; sau đó các trưởng lão sẽ đề nghị cách giải quyết, như Phao-lô đã làm trong I Cô-rinh-tô 5. Vậy hội thánh nào sẽ huấn luyện tín hữu hiểu biết về sự sáng suốt Cơ-đốc, về sự can đảm và vâng phục tốt hơn?

Nếu Phao-lô chỉ đơn giản là loại bỏ người đề cập trong I Cô-rinh-tô 5, thì hội thánh Cô-rinh-tô đã mất đi cơ hội được huấn luyện về sự sáng suốt, can đảm và vâng phục. Nhưng ông đã để họ can dự vào. Như một nhà bình luận đã ghi, Phao-lô không muốn trong bản báo cáo sức khỏe của hội thánh có lưu, “Hoạt động tốt dưới sự giám sát liên tục” (I Cô-rinh-tô, 168-69). Thay vào đó, ông muốn thấm nhuần trong họ một ý thức về trách nhiệm chung của mình đối với sự thánh khiết của hội thánh.

Con người trưởng thành khi họ được trao cơ hội. Không phải ai trong hội thánh cũng đều sẽ trở thành một trưởng lão. Nhưng sẽ tốt hơn khi các trưởng lão luôn chịu trao quyền cho người khác. Họ cho người khác quyền được dạy lớp Trường Chúa Nhật, chủ trì một cuộc họp, lãnh đạo công tác nỗ lực truyền giáo, phục vụ trong ban chấp sự, lãnh đạo một nhóm nhỏ, và tổ chức một kỳ đi nghỉ dưỡng cho phụ nữ, … Thậm chí họ có thể để hội thánh góp phần vào những vấn đề liên quan đến tư cách thành viên và kỷ luật, mà đôi khi trở nên phức tạp. Nhưng điều này buộc các trưởng lão phải huấn luyện hội thánh (xem Ê-phê-sô 4:11-16). Trưởng lão khôn ngoan huấn luyện, hội thánh khôn ngoan. Trưởng lão tồi huấn luyện, hội thánh tồi.

Tóm lại, thẩm quyền mục vụ, không phải là cho rằng, “Chúng tôi là những người giỏi. Chúng tôi đã được sắc phong. Mọi người có thể ngồi xuống.” Cách tiếp cận này thường dẫn đến sự tự mãn, yếu đuối và cuối cùng là các hội thánh tự do về mặt giáo lý. Thay vào đó, thẩm quyền mục vụ là, “Bạn nên vung gậy như thế này, nhấn hợp âm đàn như thế kia, lập trình máy tính như thế nọ, yêu thương hội thánh ra làm sao. Giờ bạn hãy bắt tay vào làm đi.”

Đặc Tính của Thẩm Quyền Mục Vụ

Nguyên tắc 6: Thẩm quyền mục vụ phụ thuộc vào tính cách, tính liêm chính và gương mẫu.

Nói cách khác, thẩm quyền của một người trưởng lão gắn chặt với sự gương mẫu. Các trưởng lão không “độc đoán” nhưng phải “làm gương,” như Phi-e-rơ đã nói (I Phi-e-rơ 5:3). Trong khi đó, các thành viên, “hãy nghĩ xem sự cuối cùng đời họ là thể nào, và học đòi đức tin họ” (Hê-bơ-rơ 13:7). Chúng ta bắt chước họ như họ bắt chước Đấng Christ (I Cô-rinh-tô 11:1).

Đây là lý do tại sao chúng ta lại tốn nhiều giấy mực hơn để bàn về đặc tính thiết yếu của một người làm mục vụ thay vì bảng mô tả công việc. Làm gương và giảng dạy các đặc tính Cơ-đốc nằm trong bảng mô tả công việc. Nói cách khác, thẩm quyền của các mục sư gắn chặt với tính cách và sự liêm chính của họ.

Hãy nghĩ về phẩm chất “chồng của một vợ” (I Ti-mô-thê 3:2; Tít 1:6). Hôn nhân của người trưởng lão có thể không hoàn hảo, nhưng người đó phải làm gương tốt cho những người chồng khác. Bạn sẽ vui khi nói với những người chồng khác, “Hãy học theo tấm gương làm một người chồng như anh ấy.” 

Sự Liêm Chính trong Thẩm Quyền Mục Vụ

Nguyên tắc 7: Thẩm quyền mục vụ vừa đồng thời mặc nhiên có và phải tìm cách để có, đòi hỏi sự tín nhiệm.

Dựa trên ý cuối thì một trưởng lão được trao nhiều thẩm quyền khi người đó được tín nhiệm.

Bây giờ, ở một khía cạnh nào đó, thẩm quyền của một mục sư không cần phải tự tìm cách để có. Đó là một chức vụ được Chúa Jêsus và Đức Thánh Linh ban cho (Công vụ 20:28). Các thành viên không phải thuận phục người đó như họ thuận phục cho chức vụ, vì phải thuận phục Chúa Jesus.

Trong lúc đó, một người trưởng lão hiển nhiên là sẽ có được thẩm quyền khi người đó chứng minh được mình đáng tin cậy. Giả sử tôi đang quan sát hai trưởng lão, một người đang cư xử với vợ rất tuyệt vời và người kia, theo cách nhìn của tôi, thì không như vậy. Bạn nghĩ ai là người tôi sẽ tin cậy hơn? Hơn thế nữa, tôi sẽ cẩn thận lắng nghe bài dạy Trường Chúa Nhật của người nào hơn về cách trở thành một người chồng tin kính? Và nếu như mỗi người trong bọn họ góp ý cho tôi về cách tôi cư xử với vợ, thì tôi sẽ vui vẻ và dễ dàng thuận phục ai hơn?

Lòng tin là nhiên liệu để phương tiện của thẩm quyền trưởng lão chạy về phía trước. Đó là chi phí mà người trưởng lão phải trả.

Trong khi đúng là thẩm quyền ra lệnh của cha mẹ hoặc cảnh sát được cải thiện bởi lòng tín nhiệm, thì điều này càng đặc biệt đúng về thẩm quyền tư vấn của một người trưởng lão (hoặc người chồng). Tóm lại, cảnh sát và cha mẹ có thể áp dụng hình thức kỷ luật ngay lập tức kể cả khi họ không được tín nhiệm. Một trưởng lão (hoặc người chồng) thì không thể. Và sự khác nhau trong cấu trúc nầy nhấn mạnh đến vai trò của sự tín nhiệm khiến các trưởng lão phải nỗ lực hơn trong việc phát triển nhân cách và sự liêm chính của mình.

Vị Trí của Thẩm Quyền Mục Vụ

Nguyên tắc 8: Sự khác nhau giữa thẩm quyền của một trưởng lão và thẩm quyền của tất cả các trưởng lão là về số lượng, chứ không phải chất lượng.

Trong lịch sử, Giáo hội Trưởng lão đôi khi phân biệt giữa thẩm quyền chung của các trưởng lão và thẩm quyền riêng của họ. Thẩm quyền chung liên quan đến những công việc mà họ chỉ có thể giải quyết được cùng với nhau, chẳng hạn như dứt phép thông công một ai đó khỏi hội thánh. Thẩm quyền riêng là những việc họ có thể làm một mình, như giảng dạy.

Là một người theo chủ nghĩa tập thể, tôi sẽ không đề cập hai nhóm này theo các thuật ngữ chính thức hoặc nguyên tắc. Giáo hội trưởng lão cần sử dụng từ ngữ như vậy vì họ đặt chìa khóa lãnh đạo vào tay các trưởng lão, chẳng hạn trưởng lão có quyền trên những việc quan trọng như kết nạp hoặc loại bỏ thành viên khỏi hội thánh, là quyền mà tôi sẽ đặt nó trong tay của cả hội chúng.

Tuy nhiên, dường như sẽ hợp lý khi cho rằng một mục sư hoặc trưởng lão không nên hành động hay đưa ra quyết định cho đến khi đã hỏi ý kiến của các trưởng lão khác, và các trưởng lão phải luôn luôn tìm kiếm thêm những trưởng lão khác nữa. Đề nghị dứt phép thông công đối với thành viên trong hội thánh rõ ràng là một ví dụ một mục sư cần tránh thực hiện một mình. Không hẳn làm vậy là phạm tội, nhưng thường là không khôn ngoan. 

Nào giờ chúng ta hãy xem điểm khác nhau về góc nhìn của các thành viên trong hội thánh đối với một trưởng lão và nhiều trưởng lão. Ở một mức độ nào đó mà Kinh Thánh gọi chúng ta hãy “phục” các trưởng lão (Hê-bơ-rơ 13:17), chúng ta có nên nghĩ khác đi về việc nghe lời khuyên của một trưởng lão khi trò chuyện trong quán café (“Jonathan, tôi khuyên bạn …”) với việc nghe lời khuyên của 6 người trưởng lão trong nhóm, “Jonathan, chúng tôi khuyên bạn…”)? Tôi cho rằng câu trả lời là có. Tuy vậy, sự khác nhau không phải về chất lượng (chung đối với liên đới), nhưng là số lượng. Sự hướng dẫn của một người và của sáu người đều cùng một vấn đề. Nhưng sự hướng dẫn của sáu người sẽ có ấn tượng hơn trên tiềm thức của tôi. Càng nhiều người, càng có trọng lượng.

Mục Sư Là Người Huấn Luyện

Chủ đề thẩm quyền không chỉ nói đến việc ai là người đưa ra quyết định; nhưng còn ảnh hưởng đến việc môn đồ hóa và mô hình tổng thể của mục vụ trong một hội thánh. Trong mô hình hội chúng do trưởng lão lãnh đạo, thực tế là các trưởng lão phải để hội thánh quyết định bất cứ vấn đề nào liên quan đến bản chất, sự liêm chính, tư cách thành viên, hoặc các nhiệm vụ trong hội thánh mà không chỉ là các buổi nhóm họp. Điều này đòi hỏi các trưởng lão cần điều chỉnh công việc khác đi một chút trong cả tuần. Cách họ tiếp cận với công việc cần bớt giống thẩm phán và cần giống huấn luyện viên nhiều hơn. 

Tóm lại, người chăn bầy cũng là con chiên. Vì thế họ làm việc không ngừng để củng cố, xây dựng, và trang bị cho các thánh đồ trở nên những thầy tế lễ và những người làm công tác môn đồ hóa. Và lúc đó, toàn bộ thân thể đều sẽ phát triển khỏe mạnh khi được gây dựng bằng tình yêu thương.

Jonathan Leeman (“What Authority Do Pastors Have? Eight Principles for Local Churches,” DesiringGod (May 9, 2024).

Translated and published with permission (June 2024).

(GSiV: More Resources)