QUYỀN NĂNG CAO CẢ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI Ở VIỆT NAM (Ê-phê 1:4-5)

Regeneration, God’s Grace, New Birth–Part 2

Charles Spurgeon says, “If any man is saved, it is not because he willed to be saved. If any man be brought to Christ, it is not of any effort of his, but the root, the cause, the motive of the salvation of any one human being, and of all the chosen in heaven, is to be found in the predestinating purpose and sovereign distinguishing will of the Lord our God.” [vol 9, year 1863, 355], “The Minister’s Stock-Taking

-Quoted in Murray, Iain. The Forgotten Spurgeon. p. 84

Discerning what Scripture says: Part 5

Ryrie on non-Lordship: an unbiblical view

 

‘C. The Fallacy of Making Surrender of Life a Part of the Gospel

‘1. The question. The question is simply this: Does one have to make Christ Lord of his life or be willing to do so in order to be saved? …Simply stated the question is: Does the lack of commitment to the lordship of Christ over the years of one’s life mean a lack of saving faith? …Theologically, then, this says that there were people at Ephesus who became believers in Christ knowing they should give up their use of magic but who did not (some for as long as two years), but who nevertheless were born again. Their salvation did not depend on faith plus submission to the lordship of Christ over their use of magic.

‘3. Some observations. This lordship teaching fails to distinguish salvation from discipleship and makes requirements for discipleship prerequisites for salvation. Our Lord distinguished the two (Luke 14:16–33).’

-Charles Ryrie, Basic Theology, p. 390-391

‘C. Sai Lầm Khi Biến Sự Phó Dâng Đời Sống Thành Một Phần Của Tin Lành

“1. Thắc mắc. Câu hỏi đơn giản là thế nầy: Có phải người ta buộc phải tôn hay sẵn lòng tôn Đấng Christ làm Chúa của đời sống mình thì mới được cứu không?… Câu hỏi đơn giản là: Thiếu phó thác cho quyền tể trị của Chúa trong những năm theo Ngài có phải chính là thiếu đức tin cứu rỗi không?…Như vậy, về mặt thần học, điều nầy nói lên rằng: tại Êphêsô có những người đã trở thành tín đồ Đấng Christ và biết phải từ bỏ việc dùng pháp thuật của mình, nhưng họ đã không bỏ (có người giữ lâu đến hai năm), nhưng dầu vậy họ vẫn là người đã được tái sanh. Sự cứu rỗi của họ đã không tùy thuộc vào “đức tin cộng với sự đầu phục quyền tể trị của Chúa” trên việc họ dùng pháp thuật.

‘3. Một số nhận định khác. Sự dạy dỗ về quyền tể trị của Chúa nầy không phân biệt giữa sự cứu rỗi với công tác môn đồ hóa, và đã biến những đòi hỏi của công tác môn đồ hóa trở thành những điều kiện tiên quyết cho sự cứu rỗi. Chúa chúng ta phân biệt hai việc nầy (Luca 14:16-33).’

-Charles Ryrie, Thần Học Căn Bản, p. 416-418

To Ryrie’s credit, he does quote people who disagree with him. It’s good that he does because here is what one of them says which, is more in line with what Scripture says:

‘Something more than “believing” is necessary to salvation. A heart that is steeled in rebellion against God cannot savingly believe: it must first be broken.… No one can receive Christ as his Saviour while he rejects Him as Lord! It is true the preacher adds that the one who accepts Christ should also surrender to Him as Lord, but he once spoils it by assertion that though the convert fails to do so nevertheless heaven is sure to him. That is one of the devil’s lies.’

‘Để được cứu rỗi, cần phải có thêm điều gì đó nữa ngoài việc “tin.” Một tấm lòng cứng cỏi chống nghịch Đức Chúa Trời thì không thể tin để được cứu được: trước hết nó phải được đập vỡ ra…. Không ai có thể tiếp nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của mình đang khi từ chối Ngài làm Cứu Chúa của mình! Nhà truyền đạo đã bổ sung đúng khi nói ai tiếp nhận Đấng Christ thì cũng nên đầu phục Ngài là Chúa, nhưng sẽ làm hỏng việc ấy ngay khi ông khẳng định dầu người tin Chúa có không đầu phục đi nữa thì vẫn chắc chắn được vào thiên đàng. Đó là một trong những lời dối trá của Satan.’

Arthur W. Pink, Present-Day Evangelism, p. 14-15 (quoted by Charles Ryrie, Thần Học Căn Bản, p. 417/ Ryrie, Basic Theology, p. 390).

Regeneration, God’s Grace, New Birth–Part 1

Charles Spurgeon says, “Sinner, unconverted sinner, I warn thee thou canst never cause thyself to be born again, and though the new birth is absolutely necessary, it is absolutely impossible to thee, unless God the Spirit shall do it….” [vol 3, year 1858, 340]

 

LANGUAGE UPDATE: “Sinner, unconverted sinner, I warn you that you can never cause yourself to be born again, and though the new birth is absolutely necessary, it is absolutely impossible to you, unless God the Spirit shall do it….”

-Quoted in Murray, Iain. The Forgotten Spurgeon. p. 87

Đức Chúa Trời và Sự Cứu Rỗi–9

Có lẽ lý do mà rất nhiều mục sư thúc giục các tín hữu chia sẻ phúc âm chính là phương pháp truyền giảng của chúng ta (tin dễ dàng–hãy mời Chúa Giê-xu vào lòng bạn; hãy có một quyết định cho Ngài) đã chiếm vị trí của chúng ta với người ngoại đạo. Họ ở trong tòa nhà nhưng không ở trong Hội thánh. Có lẽ đây là lí do vì sao các lãnh đạo phải dùng sức thuyết phục khác thường và những chiến thuật tội lỗi vì không có sự sống trong chỗ ghế ngồi để thúc đẩy, không có Thánh Linh ở trong, và không có tấm lòng bằng thịt–chỉ là một tấm lòng bằng đá meo mốc nguội lạnh. Mọi sức thuyết phục phải được tuôn ra từ bên ngoài qua mục sư làm cho họ cảm thấy tội lỗi, xấu hỗ, hoặc sợ hãi, bất kỳ điều nào văn hóa họ có thể gợi lên. Vì thế sự liên hoàn của xu hướng tin dễ dàng trong Hội thánh chúng ta không phải là điều chúng ta cần. (Listen to Juhnke’s sermon, “Decisional Regeneration.”)’

SOME ENGLISH:

Maybe the reason so many pastors have to prod church members to share the gospel is that our very method of evangelism (easy believeism—invite Jesus into your heart; make a decision for him) has populated our pews with pagans….’

 

– Đoạn 39, GSiV: Xem chi tiết

 

Discerning what Scripture says: Part 2

Here’s some bad theology:

 

‘The One True God allows every person to choose spiritual light or spiritual darkness. Through his Spirit he is always trying to help people understand his wonderful message: My Son, Jesus Christ, is the light of the world. “The person who follows him shall not live in darkness, but shall have the light of life.”’

 

‘Đức Chúa Trời Chân Thật duy nhất đã cho phép mọi người quyền tự do lựa chọn để sống trong sự sáng hay trong sự mù lòa về thuộc linh. Qua Đức Thánh Linh, Ngài giúp chúng ta hiểu được sứ điệp mầu nhiệm của Ngài: “Chúa Giê-xu, Con Ngài là sự sáng của thế gian. Những ai tin theo Ngài thì không sống trong tối tăm nhưng có ánh sáng của sự sống.”’

 

The section that says, “My Son, Jesus Christ…” is great. But the part about “God allows” and “he is trying to help” gives the false view that God is helpless, depending on the decisions of humans. If he didn’t change our hearts and open our eyes, no one would believe. We choose him because he has first chosen us. But God isn’t helpless in the process.

 

-“The Light of the World,” Book 2, p. 14-15

 

(Xem chi tiết Đoạn 42, GSiV)

 

Discerning what Scripture says: Part 1

Here’s some good theology:

 

‘Many people who listened to Jesus as he taught had trouble in believing that he was the Son of God. They did not believe that he was sent to the earth by God the Father. Instead of believing his words, many people chose to believe in a plan of religion made by men. They did not understand that God’s ways of doing things are much better than men’s way of doing things.’

 

‘Nhiều người đã nghe Đức Chúa Giê-xu giảng dạy nhưng họ không tin Ngài là Con của Đức Chúa Trời và đã được Đức Chúa Cha sai đến trần gian. Thay vì tin vào Lời Ngài, con người tin vào tôn giáo mà họ tự tạo ra. Họ không biết rằng đường lối của Đức Chúa Trời là tốt đẹp hơn đường lối của con người.’

 

This teaching is good because as natural unsaved humans we all have trouble believing. It takes God to open our eyes.

 

-“The Light of the World,” Book 2, p. 8-9

 

(Xem chi tiết Đoạn 42, GSiV)

Five Reasons to Embrace Unconditional Election

Here’s what Piper says:

  1. We embrace unconditional election because it is true.
  2. We embrace unconditional election because God designed it to make us fearless in our proclamation of his grace in a hostile world.
  3. We embrace unconditional election because God designed it to make us humble.
  4. We embrace unconditional election because God made it a powerful moral impetus for compassion, kindness, and forgiveness.
  5. We embrace unconditional election because it is a powerful incentive in our evangelism to help unbelievers, who are great sinners, not despair.

Read more in English

Năm lý do để ôm chặt lấy sự chọn lựa vô điều kiện

Lời của Piper là:

  1. Chúng ta ôm chặt lấy sự chọn lựa vô điều kiện bởi vì điều nầy là đúng.
  2. Chúng ta ôm chặt lấy sự chọn lựa vô điều kiện bởi vì Đức Chúa Trời đã định sẵn điều đó hầu cho chúng ta đủ sự dạn dĩ công bố ân điển của Ngài giữa một thế giới thù địch.
  3. Chúng ta ôm chặt lấy sự chọn lựa vô điều kiện bởi vì Đức Chúa Trời đã định sẵn hầu cho chúng ta biết mình là hèn mọn.
  4. Chúng ta ôm chặt lấy sự chọn lựa vô điều kiện bởi vì Đức Chúa Trời khiến điều nầy trở nên một sự thúc đẩy mạnh mẽ trong tấm lòng để có được sự thương xót, nhơn từ và sự tha thứ.
  5. Chúng ta ôm chặt lấy sự chọn lựa vô điều kiện bởi vì đó là sự thuc đẩy rất mạnh mẽ trong công cuộc truyền giáo để cứu lấy những con người là tội nhân đáng chết nhưng vẫn còn hy vọng dành cho họ.

Đọc hơn bằng Tiếng Việt

(Tại GSIV Xem chi tiết)

Đức Chúa Trời và Sự Cứu Rỗi–7

‘Lời chứng về ân điển của Đức Chúa Trời

‘Trong thần học cải chánh hay phái Calvin sâu sắc hơn năm điểm như người ta thường biết đến, thật hữu ích để trình bày những điểm này tại đây, thứ nhất theo hình thức lời chứng thực tế, và chúng cũng khách quan rõ ràng qua các nhiều thế kỷ:

‘Mặc dù được mang hình ảnh của Đức Chúa Trời trước khi tôi được Chúa Cứu Thế cứu tôi, tôi hoàn toàn bị hư mất trong tội lỗi mình, hư hỏng bởi tội lỗi, tôi không hề chọn Đức Chúa Trời cho mình. Trên thực tế, tôi đã chết trong tội lỗi. Đức Chúa Trời, trong sự thương xót của Ngài, đã chọn tôi trong quá khứ từ trước khi thế gian bắt đầu, không phải vì Ngài thấy tôi sẽ tin. Điều đó đã đặt tôi vào trong sự cứu rỗi. Tôi đã không thể tin khi tôi còn chết trong tội lỗi mình. Ngài muốn tôi tin để nhận được mọi ẩn điển. Khi Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá, Ngài không chỉ khiến tôi được cứu, thành một tín hữu tiềm năng. Không, Ngài đã chết cho tôi và tất cả mọi người được chọn trong quá khứ lẫn tương lai. Huyết Chúa Giê-xu thật đã trả hết cho nợ tội của tôi. Khi thời điểm đã đến, Đức Chúa Trời đã tái sanh tấm lòng tôi, khiến tôi sống lại từ trong tội lỗi mình bởi việc tái tạo tấm lòng đã chết của tôi, tôi đã muốn điều Đức Chúa Trời muốn cho tôi–chính Ngài. Tôi đã không thể chọn Ngài hay sự cứu rỗi của Ngài nếu Ngài không chọn tôi trước. Điều đó hoàn toàn chỉ bởi ân điển vì tôi chỉ xứng đáng với địa ngục. Bây giờ tôi thực sự đã được cứu vào trong gia đình của Đấng Christ qua sự ăn năn và đức tin, ân điển của Đức Chúa Trời giúp tôi đươc cứu. Tôi có thể chạy vì Chúa Giê-xu đã chạy và chịu đựng cho đến đổ huyết. Chúa Giê-xu sẽ không hề bỏ tôi, như Ngài đã phán: “Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta, kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu” (Giăng 6:37)’

SOME ENGLISH:

Testimony of God’s grace

‘While reformed theology, or Calvinism, is deeper than just the five points it is often known for, it’s helpful to lay out these points here, first, in practical testimonial form, then as they have been more objectively defined through the centuries:

 

‘Despite being in God’s image before Christ saved me, I was so lost in my sin, so tainted by it, that I never would choose God on my own. In fact, I was dead in sin….’

 

– Đoạn 14-15, GSiV: Xem chi tiết

 

Đức Chúa Trời và Sự Cứu Rỗi–6

‘Như vậy chúng ta rõ ràng từ đầu rằng nhà truyền giáo Spurgeon là một người theo Calvin, có rất nhiều bằng chứng:

 

  • ‘“Tôi có ý kiến riêng của mình rằng không có gì bằng việc giảng Đấng Christ và việc bị đóng đinh của Ngài trừ phi chúng ta giảng điều mà thời nay gọi là thuyết Calvin. Đó là tên thông dụng gọi là phái Calvin; thuyết Calvin là về phúc âm, và không có gì khác. Tôi không tin chúng ta có thể giảng Phúc âm… trừ phi chúng ta giảng về quyền năng của Đức Chúa Trời trong sự tha thứ của ân điển Ngài; hay trừ phi chúng ta tôn cao Đấng được chọn, không hề thay đổi, đời đời, trường tồn, tình yêu chiến thắng của Đức Giê-hô-va; hay tôi không nghĩ chúng ta có thể giảng phúc âm trừ phi chúng ta đặt nó trên sự cứu chuộc đặc biệt của những người được chọn của Ngài mà Đấng Christ đã thực hiện trên thập tự giá; tôi cũng không hiểu một phúc âm đã cho phép các thánh đồ sa ngã sau khi họ được kêu gọi.” (Packer, Quest, p. 345, note 7, quoting Spurgeon, The Early Years, Autobiography, 172.)’

 

SOME ENGLISH:

‘So that we’re clear from the beginning that the evangelistic Spurgeon was a Calvinist, here is overwhelming proof:

 

  • ‘“I have my own private opinion that there is no such thing as preaching Christ and him crucified, unless we preach what is nowadays called Calvinism. It is a nickname to call it Calvinism; Calvinism is the gospel, and nothing else….’ (Packer, Quest, p. 345, note 7, quoting Spurgeon, The Early Years, Autobiography, p. 172.)

 

– Đoạn 12, GSiV: Xem chi tiết

 

TULIP & GOSPEL

 

I recently came across an interesting suggestion. Read here and see what you think:

“So, what is the suggested acronym?  G.O.S.P.E.L.  What better way to make reference to the Doctrines of Grace?  Calvinism, after all, is about the sovereign grace of God in the Gospel of Jesus Christ.  The Doctrines of Grace are the biblical teachings regarding G.O.S.P.E.L. grace and glory.  Allow me, therefore, to supply a brief explanation of this acronym.

“G.O.S.P.E.L.

“God’s Glory: Foundational to the Doctrines of Grace is the biblical teaching that God’s redeeming work is to the praise of His glorious grace (Eph. 1:3-14 especially vv. 6, 12; Rom. 11:33-36).

“G.O.S.P.E.L.

“Original Sin: This point replaces Total Depravity in T.U.L.I.P.  The doctrine of original sin is greatly lost in our day, which is one good reason for making this change.

G.O.S.P.E.L

“Sovereign Election: This point replaces Unconditional Election in T.U.L.I.P.  The point of unconditional election is that God’s choice of His redeemed people was not rooted in anything they have done, but simply in the sovereign and good purposes of God (otherwise it’s not grace).

“G.O.S.P.E.L.

“Particular Atonement: This point replaces Limited Atonement in T.U.L.I.P.  We Calvinists are often forced to clarify the meaning of limited atonement, and our clarifications nearly always include the use of the word ‘particular’.

“G.O.S.P.E.L.

“Effectual Grace: This point replaces irresistible grace in T.U.L.I.P.  Like the previous point, I believe this point will also provide much needed clarification.

“G.O.S.P.E.L.

“Lasting Grace: This point replaces Perseverance of the Saints in T.U.L.I.P.”

Read the rest here reformedbaptistdaily

 

Đức Chúa Trời và Sự Cứu Rỗi–5

Charles Spurgeon đã đi theo thuyết Calvin mà chúng ta sẽ bàn đến ở đây. Ông nói: “Đối với tôi, Calvin cho rằng cương vị của Đức Chúa Trời đời đời là ở đầu của mọi sự. Tôi quan sát mọi thứ qua sự liên hệ của nó với sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Tôi nhìn thấy Đức Chúa Trời trước tiên, và kế đến là con người… Thưa anh chị em, nếu chúng ta sống trong sự cảm thông với Đức Chúa Trời, chúng ta vui mừng nghe Ngài phán: “Ta là Đức Chúa Trời và chẳng có Đấng nào khác” (Piper sermon, “Spurgeon,” quoting An All Round Ministry, p. 337).’

SOME ENGLISH:

 ‘Charles Spurgeon embraced the kind of Calvinism we’re going to be discussing here. He said, “To me, Calvinism means the placing of the eternal God at the head of all things….”’

– Đoạn 11, GSiV: Xem chi tiết

 

 

Arminianism by the wholesale: Danger

Spurgeon says in a sermon that no greater religion could be invented than Christianity. He also dares his reader to come up with an example. The elect, he says, cannot ultimately be deceived. Then he lists a few temptations, one of which is Arminianism. Note what the great evangelistic preacher thought of the dangers of Arminianism and the glories of Calvinism and how the latter linked to, and protected, the gospel itself:

 

  • ‘Would ye wake up one that should deceive us and lead us astray? We bid you do it; for it is not possible to deceive the elect. Ye may deceive the multitude, but God’s elect shall not be led astray. They have tried us. Have they not given us Popery? Have they not assailed us with Puseyism? Are they not tempting us with Arminianism by the wholesale? And do we therefore renounce God’s truth? No: we have taken this for our motto, and by it we will stand. “The Bible, the whole Bible, and nothing but the Bible,” is still the religion of Protestants: and the self-same truth which moved the lips of Chrysostom, the old doctrine that ravished the heart of Augustine, the old faith which Athanasius declared, the good old doctrine that Calvin preached, is our gospel now, and God helping us, we will stand by it till we die. How will ye quench it? If ye wish to do it, where can ye find the means? It is not in your power. Aha! aha! aha! we laugh you to scorn.’

-“The Eternal Name,” C. H. Spurgeon, 1855 (#27).