Spurgeon: Man’s ‘free’ will
Scripture is our final authority but note how Charles Spurgeon helps clarify what the Word actually says about man’s so-called ‘free will.’
- ‘Beloved, do not any of you swerve from the free Grace of God, for the babblings about man’s free agency are neither more nor less than lies, right contrary to the Truth of Christ and the teachings of the Spirit. How certain, then, is the salvation of every elect soul! It does not depend on the will of man—he is “made willing” in the day of God’s power.’ -Spurgeon, 1856, “The Holy Spirit in the Covenant”
(Đoạn 42, GSiV: Ý chí tự do của con người, Xem chi tiết)
(Also see GSiV here)
Đức Chúa Trời và Sự Cứu Rỗi–16
‘Spurgeon không chỉ là một người theo phái Calvin, ông đã tin năm điểm tương này của thuyết Calvin mà chúng ta đang thảo luận. Và ông đã xem xét chúng đầy đủ theo sự dạy dỗ của Kinh thánh.
- “Tôi cho rằng đối tượng của mục vụ trong nhà này [Nhà hội thờ phượng], chừng nào bục giản này còn và chừng nào nhà thờ này còn tiếp tục bởi những người thờ phượng, thì sẽ nói đến thân vị của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Tôi không hề hổ thẹn tự nhận mình là một người theo học thuyết Calvin; tôi không ngần ngại mang danh người Báp-tít; nhưng nếu hỏi tín điều của tôi là gì, thì tôi trả lời: “đó là Chúa Cứu Thế Giê-xu.” (Piper sermon, “Spurgeon,” citing Ross, p. 66, quoting Spurgeon)’
SOME ENGLISH:
‘Not only was Spurgeon a Calvinist, he believed these same five points of Calvinism that we’re discussing here. And he saw them as integral to the Bible’s teaching:
- “I would propose that the subject of the ministry in this house [Metropolitan Tabernacle], as long as this platform shall stand and as long as this house shall be frequented by worshippers, shall be the person of Jesus Christ. I am never ashamed to avow myself a Calvinist….”’
– Đoạn 18, GSiV: Xem chi tiết
Đức Chúa Trời và Sự Cứu Rỗi–15
‘Đây không đơn thuần là một hệ thống của con người. Đó là một cái nhìn theo Kinh thánh để thấy cánh tay của Đức Chúa Trời trong sự cứu rỗi như chúng tôi sẽ trình bày. Nhưng trước tiên là điều tốt để được nghe từ các tín hữu đáng kính là những người đã đi theo năm điểm của học thuyết Calvin. James I. Packer, một người Anh Giáo bảo thủ đã nói: “học thuyết Calvin … chỉ là phúc âm Kinh thánh” (Quest, p. 134). Spurgeon đã nói như thế này: “Thuyết Thanh Giáo, thuyết Tin Lành, thuyết Calvin [chỉ đơn giản là] những danh xưng khiêm tốn mà thế gian đặt cho đức tin vinh hiển và vĩ đại của chúng ta–Tín điều của sứ đồ Phao-lô, phúc âm của Chúa và Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta” (Piper sermon, “Spurgeon,” quoting An All Round Ministry, p. 160).’
SOME ENGLISH:
’This is not merely a man-made system. It is a biblical way of seeing God’s hand in salvation as we shall show. But first it will be good to hear from other respected believers who have embraced the five points of Calvinism….’
– Đoạn 17, GSiV: Xem chi tiết
Đức Chúa Trời và Sự Cứu Rỗi–14
‘Thêm những nhận định khách quan, thuyết Calvin liên quan đến sự cứu rỗi được biết qua nhóm chữ cái đầu của từ, TULIP:
- T (Total Depravity) Tuyệt Đối băng hoại: Từng khía cạnh trong con người (VD: tâm trí, ý muốn, linh hồn, vv) bị bại hoại bởi ảnh hưởng của tội lỗi. Con người vô cùng xấu xa, hoàn toàn băng hoại, và chết trong tội lỗi mình, vì vậy con người cần sự sống từ Đức Chúa Trời.
- U (Unconditional Election) Được chọn vô điều kiện: Trong cõi đời đời Đức Chúa Trời chọn những người Ngài sẽ cứu, không dựa vào phẩm hạnh của họ hay bất kỳ công đức nào họ làm hay đức tin mà họ có nhưng dựa trên ý muốn tốt lành của Ngài.
- L (Limited Atonement) Sự chuộc tội có giới hạn: Chúa Cứu Thế chỉ chết chuộc tội cho những người đã được chọn.
- I (Irresistable Grace) Ân điển không thể cưỡng lại: Những người Đức Chúa Trời đã chọn sẽ tin thì được cứu.
- P (Perseverance of the Saints) Sự kiên trì của các thánh đồ: Các Cơ đốc nhân sẽ tiếp tục đức tin của mình. Họ sẽ không mất sự cứu rỗi.’
SOME ENGLISH:
‘More objectively stated, Calvinism as it relates to salvation is known by its acronym, TULIP:
- Total Depravity: every aspect of mankind’s being (e.g., mind, will, soul, etc.) is tainted by sin’s effects. Man is not as bad as he could be, but is nonetheless thoroughly sinful, and therefore, dead in his sin and needing life from God….’
– Đoạn 16, GSiV: Xem chi tiết
“Let go and let God?”
Often Christians say to each other when one is struggling, “Just let God, and let God [take over].” But is it helpful? This way of thinking, or theology, is called the “Deeper Life” or “Higher Life” or “Keswick” view of sanctification. But the real question is, Is it biblical? Here’s an article excerpt to explain:
‘At its best, this phrase [“Let go and let God”] highlights the value of surrender. God is God, and you are not, so lay down your résumé, your excuses, your fears.
‘All too often, though, the phrase is wielded as if the symbol of Christianity is not a cross but a couch. It’s subtly used to put the brakes on striving, on working, on effort.
‘Now, if “let go and let God” solely referenced the moment of justification, it would be fine. But it typically refers to the process of sanctification, which is anything but passive.
‘The Christian life is grueling. When Paul reflects on it, he doesn’t think of sunsets and naps but soldiers and athletes and farmers (2 Tim. 2:3–6). He thinks of running tracks and boxing rings (1 Cor. 9:24–27).
‘We are called to work out what God has already worked in us, laboring not for our salvation but from it (Phil. 2:12–13). This dynamic of restful vigilance (Matt. 11:28–30; 16:24) — what the Puritans called “holy sweat” — lies at the heart of Christian experience.
‘As J. I. Packer once put it, “The Christian’s motto should not be ‘Let go and let God’ but ‘Trust God and get going.'”’
-Matt Smethurst
(GSiV: Prayer, then scroll down to ‘Andy Naselli’)
Labor On, Spend and Be Spent
“Go, labor on while it is day,
The world’s dark night is hastening on.
Speed, speed thy work, cast sloth away—
It is not thus that souls are won.”
-Horatius Bonar (1808-1889), “Go Labor On, Spend and Be Spent,” Hymn
(Also see GSiV here)
Ba Ngôi Đức Chúa Trời (BF&M: Trinity)—part 9
Baptist Faith and Message (2000)
Section 2: God
‘There is one and only one living and true God. He is an intelligent, spiritual, and personal Being, the Creator, Redeemer, Preserver, and Ruler of the universe. God is infinite in holiness and all other perfections. God is all powerful and all knowing; and His perfect knowledge extends to all things, past, present, and future, including the future decisions of His free creatures. To Him we owe the highest love, reverence, and obedience. The eternal triune God reveals Himself to us as Father, Son, and Holy Spirit, with distinct personal attributes, but without division of nature, essence, or being.’
Đức Tin và Thông Điệp của Người Báp-tít (2000)
Điều 2: Đức Chúa Trời
Chỉ có duy nhất một Đức Chúa Trời Đấng Tạo Hóa sống và chân thật. Ngài là một thực thể thông huệ, thiêng liêng và có cá tính, là Đấng Sáng Tạo, Đấng Cứu Chuộc, là Đấng Bảo Tồn, và là Đấng cai quản cả hoàn vũ. Đấng tạo hóa thánh khiết vô hạn, và Ngài có tất cả những sự hoàn hảo khác. Ngài là Đấng toàn năng, toàn tri và sự hiểu biết toàn vẹn của Ngài bao trùm cả mọi vật, trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai. Ngài thật xứng đáng cho chúng ta dâng lên tình yêu, sự kính trọng và sự tuân phục cao nhất của chúng ta. Đức Chúa Trời là Chúa Ba Ngôi hằng hữu bày tỏ chính Ngài cho chúng ta qua Ngôi Đức Chúa Cha, Ngôi Đức Chúa Con và Ngôi Đức Thánh Linh, với những cá tính riêng biệt nhưng không phân chia về tính chất, bản thể hay thực thể.’
(GSiV: Trinitarian Illustrations & Outline)
(GSiV: Confessions/Các tín điều/Giáo lý Dort & Tuyên Xưng Philadelphia & Tools)
A Few Confessions of Faith in Vietnamese
Confessions of Faith in Vietnamese:
- Bài Tín Điều Các Sứ Đồ (Apostles’ Creed)
- Tín Điều Nicaea (Nicene Creed)
- Bài Tín điều Athanasius (Athanasian Creed)
- Sách Giáo Lý Có Câu Hỏi Vấn Đáp Heidelberg (Heidelberg Catechism) [link problems]
- Heidelberg Catechism (Vietnamese and English)
- Sách Giáo Lý Có Câu Hỏi Vấn Đáp–Theo Quan Điểm Tin Lành Báp Tít (1689), “Giáo Lý Vấn Đáp,” Baptist Catechism (1689) (“Giáo Lý Vấn Đáp” (Bản Tiếng Việt Của “The Baptist Catechism 1689”) (Temporary link)
- Giáo Lý Vắn Tắt Westminster / Sách Giáo Lý Có Câu Hỏi Vấn Đáp Westminster (1646), Westminster Shorter Catechism (1646)
- Giáo Lý Vấn Đáp Thành Phố Mới / Sách Giáo Lý Có Câu Hỏi Vấn Đáp Thành Phố Mới (New City Catechism)
- Giáo Luật của Dordt (Dort) / Canons of Dordt (Dort)
- Xưng Nhận Đức Tin Belgic (Belgic Confession)
- Xưng Nhận Đức Tin / Tuyên Xưng Đức Tin Philadelphia (Philadelphia Baptist Confession of Faith, 1742)(Temporary link)
- Xưng Nhận Đức Tin / Tuyên Xưng Đức Tin Cambridge / Tuyên Ngôn Cambridge (The Cambridge Declaration, 1996) (Temporary link)
Đức Tin và Thông Điệp của Người Báp-tít (Baptist Faith and Message, 2000)
Reformation History: Five Onlys–part 10
“CHỈ DUY NHẤT” NĂM CUỘC CẢI CHÁNH
Ngày cải chánh là ngày 31 tháng 10, là ngày mà Martin Luther (1483-1546) đóng đinh lên 95 câu gốc của ông ấy. Như vậy, “solas” (“chỉ duy nhất”) năm là…
- Chỉ có duy nhất Kinh Thánh: Chỉ có duy nhất Kinh Thánh là có quyền năng cho cuộc sống và thực hành trong Hội Thánh. (Chỉ có một mình Kinh Thánh; Tiếng La-tinh: Sola Scriptura)
- Chỉ có duy nhất ân điển: Chỉ có duy nhất ân điển cao cả của Đức Chúa Trời là lý do cho sự cứu rỗi của chúng ta mà thật sự không cần bất cứ tiềm năng hay là đạo đức nào của con người, sự cố gắng, đức tin, hay là việc làm. (Chỉ có một mình ân điển; Tiếng La-tinh Sola Gratia)
- Chỉ có duy nhất đức tin: Sự công bình chỉ duy nhất bởi đức tin và không có việc làm của con người. (Chỉ bởi một mình đức tin; Tiếng La-tinh Sola Fide)
- Chỉ có duy nhất Đấng Christ: Sự cứu rỗi thông qua một người và chỉ có duy nhất công tác thêm của Đức Chúa Giê-xu Christ. (Chỉ một mình Đức Chúa Giê-xu Christ mà thôi; Tiếng La-tinh Solus Christus)
- Chỉ có duy nhất vinh hiển của Đức Chúa Trời: Tất cả mọi việc đều tồn tại, lý do chính (cuối cùng/căn bản) là vì chỉ có duy nhất vinh hiển của Đức Chúa Trời mà thôi. (Chỉ một mình Chúa được tôn vinh; Tiếng La-tinh Soli Deo Gloria)
FIVE “ONLYS” OF THE REFORMATION
October 31 is Reformation Day, the day Martin Luther (1483-1546) nailed up his 95 theses. Thus, the five “solas” (“onlys”) are…
- Scripture Alone: Scripture alone as the authority for life and practice in the church. (Only Scripture; Latin: Sola Scriptura)
- Grace Alone: God’s sovereign grace alone as the reason for our salvation without any actual or potential human merit, effort, faith, or work. (Only Grace; Latin: Sola Gratia)
- Faith Alone: Justification by faith alone and no human works. (Only faith; Latin: Sola Fide)
- Christ Alone: Salvation through the Person and work of Jesus Christ alone. (Only Christ; Latin: Solus Christus)
- Glory of God Alone: All things exist ultimately for the glory of God alone. (Only God’s glory; Latin: Soli Deo Gloria)
GSiV: Luther, Calvin, Farel, Reformation (Tiếng Việt và Tiếng Anh)
Reformation History: John Calvin là ai?–part 9
Who is John Calvin?
‘John Calvin là nhà thần học hàng đầu của Phong Trào Cải Cách Giáo Hội (Reformation Movement) ông đã có những đóng góp to lớn cho Hệ Thống Thần Học Cải Cách (Reformed theology) hay cũng gọi là Chủ Thuyết Calvin (Calvinism). Chính ông đã biến Geneva thành trung tâm điểm phổ biến Thần Học Cải Cách (Reformed Theology), ông đã viết nhiều tác phẫm và chính điều nầy đã khiến ông trở nên nhân vật lãnh đạo lổi lạc của phong trào cải cách giáo hội vào thế kỷ thứ 16. Một trong những tác phẩm nổi tiếng đầu tiên của Ông là quyển “ Thể Chế Cơ-Đốc Giáo (Institutes of the Christian Religion) xuất bản đầu tiên bằng tiếng Latin năm ông 26 tuổi 1536, tiếng Pháp năm 1541, tái xuất bản bằng tiếng Latin năm 1559, và tiếng Pháp năm 1560.’
-Mục Sư Nguyễn Xuân Bảo “Nhà-Thần-Học Sáng Lập Giáo Hội Trưởng-Lão & Cải-Cách” (Chưa in)
Reformation History: John Calvin là ai?–part 8
Who is John Calvin?
‘Từ khi còn trẻ tuổi John Calvin là một học sinh xuất sắc và rất yêu mến Chúa; năm 1523, thân phụ Calvin là một luật-sư, gởi Calvin đến Đại-Học Paris, khởi sự học tiếng Latin và thần học, nhưng sau đó ông thay đổi ý kiến và khuyên con trai đi học luật. Sau khi tốt nghiệp Cử nhân luật khoa, Calvin tiếp tục theo học tại Đại Học Orlean và Đại Học Bourges. Năm 1532 ông tốt nghiệp Tiến-Sĩ Luật tại Orlean, nhưng ông không hành nghề luật sư, Calvin dọn về Paris, không ai biết được Calvin bắt đầu theo Phong Trào cải cách (Reformation Movement) từ lúc nào, nhưng theo sách Giải-Kinh Thi-Thiên (Commentary on Psalms) John Calvin viết lời tựa “ Đức Chúa Trời đã bắt phục tôi và lời Ngài đã dạy tôi, sau khi biết được chân lý, lòng tôi nóng cháy mong ước được tấn tới trong niềm tin cải cách.’
-Mục Sư Nguyễn Xuân Bảo “Nhà-Thần-Học Sáng Lập Giáo Hội Trưởng-Lão & Cải-Cách” (Chưa in)
Reformation History: William Farel–part 7
‘Farel hated the pope with a passion and despised all papal ceremonies. His mission in life, as he conceived it, was to destroy every remnant of popery in images, ceremonies, and rituals, which were the standard diet of those held in Rome’s chains.
‘His strength was in his preaching. That is, it was not so much in his careful preparation of sermons, for he mostly preached without preparation, and none of his sermons have come down to us. His strength was in his powerful delivery. Schaff [History of the Christian Church (Grand Rapids: Wm. B. Eerdmans Publishing Co., 1950] writes:
”He turned every stump and stone into a pulpit, every house, street, and market-place into a church; provoked the wrath of monks, priests, and bigoted women; was abused, called ‘heretic’ and ‘devil,’ insulted, spit upon, and more than once threatened with death…. Wherever he went he stirred up all the forces of the people, and made them take sides for or against the new gospel.” (page 242)
‘But Schaff also writes: “No one could hear his thunder without trembling, or listen to his most fervent prayers without being almost carried up to heaven”’ (page 446).
by Hanko Herman









