QUYỀN NĂNG CAO CẢ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI Ở VIỆT NAM (Ê-phê 1:4-5)

Ba Ngôi Đức Chúa Trời (ôn lại) / Trinity (reviewed)–part 13

Chỉ có một Thiên Chúa, đó là Đức Chúa Trời 

Phục Truyền 6:4, “Hỡi Y-sơ-ra-ên! hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai.”

Đức Chúa Cha là Đức Chúa Trời 

Ê-phê-sô 1:3, “Ngợi-khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus-Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng-liêng ở các nơi trên trời,”

Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời 

Cô-lô-se 2:9, “Vì sự đầy-dẫy của bổn-tánh Đức Chúa Trời thảy đều ở trong Đấng ấy như có hình.”

Đức Chúa Thánh Linh là Đức Chúa Trời 

Công Vụ 5:3-4, “Phi-e-rơ bèn nói với người rằng: Hỡi A-na-nia, sao quỉ Sa-tan đã đầy-dẫy lòng ngươi, đến nỗi ngươi nói dối cùng Đức Thánh-Linh . . . ? chẳng phải ngươi nói dối loài người, bèn là nói dối Đức Chúa Trời.”

Đức Chúa Cha không phải là Đức Chúa Con 

Giăng 3:16, “Vì Đức Chúa Trời yêu-thương thế-gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư-mất mà được sự sống đời đời.”

Đức Chúa Con không phải là Đức Chúa Thánh Linh 

Giăng 14:16, “Ta lại sẽ nài-xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên-ủi khác, để ở với các ngươi đời đời,”

Đức Chúa Thánh Linh không phải là Đức Chúa Cha 

Giăng 14:26, “Nhưng Đấng Yên-ủi, tức là Đức Thánh-Linh mà Cha sẽ nhân danh ta sai xuống . . . .” 

Đức Chúa Cha là một ngôi 

Lu-ca 22:42, “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén nầy khỏi tôi! Dầu vậy, xin ý Cha được nên, chớ không theo ý tôi!…”

Đức Chúa Con là một ngôi 

Ê-phê-sô 5:25, “Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã yêu Hội-thánh. . . .”  

Đức Chúa Thánh Linh là một ngôi 

Ê-phê-sô 4:30, “Anh em chớ làm buồn cho Đức Thánh-Linh của Đức Chúa Trời, vì nhờ Ngài anh em được ấn-chứng đến ngày cứu-chuộc.”

(GSiV: A Few Confessions of Faith in VietnameseTrinity outline (Việt và Anh)Trinity chart/diagram (Việt và Anh)Ba Ngôi Đức Chúa Trời: Trinity (Ông Erickson)–Part 11;

Ba Ngôi Đức Chúa Trời: Trinity (Resources))

Heidelberg Catechism (Viet and Eng)–part 2

NGƯỜI SỰ ĐAU KHỔ CỦA CON NGƯỜI

3. HỎI: LÀM THẾ NÀO BẠN NHẬN BIẾT SỰ ĐAU KHỔ CỦA BẠN?

ĐÁP:

Luật pháp của Chúa bảo tôi như vậy.

  • 1. Rô-ma 3:20; 7:7-25. 

4. HỎI: LUẬT PHÁP CỦA CHÚA ĐÒI HỎI CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?

ĐÁP:

Sự dạy dỗ của Chúa Cơ-đốc được tóm lược trong Phúc Âm Ma-thi-ơ đoạn 22. Ngươi phải yêu mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi

  • Với tất cả tấm lòng
  • Với tất cả linh-hồn
  • Với tất cả trí-khôn
  • Với tất cả sức-lực.Đây là điều răn thứ nhất và lớn hơn hết.

Và điều răn thứ hai như vầy: Ngươi phải yêu người lân-cận như chính mình 2. Cả hai điều-răn này đều thuộc về tất cả luật-pháp và lời tiên-tri.

  • 1. Phục truyền Luật lệ ký 6:5. 
  • 2. Lê-vi ký 19:18

Read more here

(GSiV: A Few Confessions of Faith in VietnameseMore Resourcespart 1)

Heidelberg Catechism (Viet and Eng)

This Bilingual English & Vietnamese version authorized by

The Canadian and American Reformed Churches

2006

Bản Song ngữ Anh – Việt

của Hội thánh Cải cách Mỹ và Canada

CHÚA NHẬT THỨ 1

NIỀM AN ỦI DUY NHẤT CỦA BẠN TRONG ĐỜI NÀY VÀ ĐỜI SAU LÀ GÌ?

ĐÁP:

Thân thể và linh hồn 1, đời sống hiện tại và đời sau 2 không thuộc về chính tôi nữa, nhưng thuộc về Cứu Chúa Giê-xu Cơ-đốc của tôi 3. Ngài đã trả đầy đủ cho tất cả tội lỗi của tôi bằng chính huyết báu của Ngài 4 và giải cứu tôi khỏi sự áp chế của ma quỷ 5. Ngài cũng canh giữ tôi như vậy 6, không một sợi tóc nào rơi khỏi đầu tôi mà không theo ý Cha của tôi ở trên trời 7. Thật vậy, mọi việc hiệp lại với nhau vì cớ sự cứu rỗi của tôi 8. Vì tôi thuộc về Chúa Cơ-đốc, nên Ngài bởi Đức Thánh Linh bảo đảm cho tôi sự sống đời đời 9 và làm cho tôi hết lòng mong muốn và sẵn sàng từ nay sống cho Ngài 10.

1. I Cô-rinh-tô 6:19,20.

2. Rô-ma 14:7-9.

3. I Cô-rinh-tô 3:23; Tít 2:14.

4. I Phi-e-rơ: 1:18,19; I Giăng 1:7-9, 2:2.

5. Giăng 8:34-36; Hê-bơ-rơ 2:14,15; I Giăng 3:1-11.

6. Giăng 6:39,40; 10:27-30; II Tê-sa-lô-ni-ca 3:3; I Phi-e-rơ 1:5. 7. Ma-thi-ơ 10:29-31; Lu-ca 21:16-18.

8. Rô-ma 8:28.

9. Rô-ma 8:15,16; II Cô-rinh-tô 1:21, 22, 5: 5; Ê-phê-sô 1:13-14. 10.Rô-ma 8:1-17.

Read more here

(GSiV: A Few Confessions of Faith in VietnameseMore Resources)

‘Chúa Thật Như Lời’ của Ông DeYoung

‘Taking God at His Word’

by Kevin DeYoung

‘Chúng ta có thể tin cậy Kinh Thánh hoàn toàn chăng? Kinh Thánh có thể giải quyết cuộc sống phức tạp của chúng ta sao? Chúng ta có thể hiểu được điều Kinh Thánh dạy không?

‘Bằng sự hóm hỉnh và thông suốt, tác giả được trao giải thưởng xuất sắc là Kevin DeYoung đã viết ra một tài liệu dẫn nhập về Kinh Thánh để giải đáp những câu hỏi quan trọng của người đã tin Chúa và chưa tin Ngài. Quyển sách này sẽ giúp bạn hiểu Kinh Thánh nói gì về Kinh Thánh, Chúa Jêsus nghĩ gì về Kinh Thánh, và những đặc điểm quan trọng góp phần vào sự tồn tại lâu dài của Kinh Thánh.

‘Bỏ qua những biệt ngữ về mặt kỹ thuật, thì quyển sách hấp dẫn này sẽ khuyến khích bạn đọc và đặt lòng tin quyết vào những gì Kinh Thánh đã chép — thực sự là Lời của Đức Chúa Trời.’

đọc thêm

(GSiV: InerrancyInspiration ; Philadelphia Baptist Confession of Faith–part 2)

Baptist Catechism (1689) (Tiếng Việt)–part 2

H.3: Làm thế nào để biết được là có Đức Chúa Trời?

Đ.: Sự khải thị của tự nhiên cho con người và công việc của Ngài trong giới

thọ tạo giúp công bố rằng hiển nhiên là có Đức Chúa Trời; nhưng chỉ có Lời Ngài trong Kinh Thánh và Đức Thánh Linh của Ngài mới có khả năng giúp bày tỏ đẩy đủ và hiệu quả về Đức Chúa Trời và về sự cứu rỗi cho tội nhân.

(Rô. 1:19-20; Thi. 19:1-3; Công. 17:24; 1Cô. 2:10; 2Ti. 3:15-16)

Giáo Lý Vấn Đáp–Theo Quan Điểm Tin Lành Báp Tít (1689), Baptist Catechism (1689).

Translated by ĐNT.

Read more here

(GSiV: A Few Confessions of Faith in Vietnamese)

Baptist Catechism (1689) (Tiếng Việt)–part 2

H.3: Làm thế nào để biết được là có Đức Chúa Trời?
Đ.: Sự khải thị của tự nhiên cho con người và công việc của Ngài trong giới 

thọ tạo giúp công bố rằng hiển nhiên là có Đức Chúa Trời; nhưng chỉ có Lời Ngài trong Kinh Thánh và Đức Thánh Linh của Ngài mới có khả năng giúp bày tỏ đẩy đủ và hiệu quả về Đức Chúa Trời và về sự cứu rỗi cho tội nhân. 

(Rô. 1:19-20; Thi. 19:1-3; Công. 17:24; 1Cô. 2:10; 2Ti. 3:15-16) 

H.4: Lời của Đức Chúa Trời là gì?
Đ.: Kinh Thánh, gồm Kinh Thánh Cựu Ước và Kinh Thánh Tân Ước, là 

Lời của Đức Chúa Trời, và là khuôn vàng, thước ngọc duy nhất cho đức tin và cho sự vâng lời Đức Chúa Trời.
(2Ti. 3:16; Êph. 2:20) 

Giáo Lý Vấn Đáp–Theo Quan Điểm Tin Lành Báp Tít (1689), Baptist Catechism (1689)

Translated by ĐNT

Read more here

(GSiV: A Few Confessions of Faith in Vietnamese)

Baptist Catechism (1689) (Tiếng Việt)—part 1

H.1: Đấng Nguyên Thủ của toàn cõi vũ trụ là ai?

Đ.: Chính Đức Chúa Trời là Đấng Nguyên Thủ của toàn cõi vũ trụ. 

(Ês. 44:6; 48:12; Thi. 97:9) 

H.2: Có phải phận sự của mỗi người là phải tin rằng có Đức Chúa Trời hay không? 

Đ.: Phận sự của mỗi người là phải tin rằng Đức Chúa Trời là thực hữu; và việc không chịu tin như vậy là một tội lớn và là một sự dại dột đối với Ngài.

(Hê. 11:6; Thi. 14:1)

Giáo Lý Vấn Đáp–Theo Quan Điểm Tin Lành Báp Tít (1689), Baptist Catechism (1689). Translated by ĐNT.

Read more here

(GSiV: A Few Confessions of Faith in Vietnamese)

No Free Will: Bondage

‘In Romans 3:19, Paul declares that every mouth is to be shut tight because no one may argue against God’s judgment of them; for there is nothing in anyone that God can praise—not even a will that is free to turn to Him. If someone says, “I do have a little ability of my own to turn to God,” that must mean he thinks there is something in him that God must praise and not condemn. His mouth is not shut! But this contradicts Scripture.’

-Martin Luther, The Bondage of the Will: A Modern English Abridgment, p. 7

(GSiV: Mọi sự đều tùy thuộc vào ý chỉ của Chúa: LutherLuther, Calvin, Farel, Reformation; Traditionalism/Provisionism;

Năm Điều Duy Nhất Của Cuộc Cải Chánh (5 onlys, 5 solas)Một Người Tên Là Martin: Video)

Mọi sự đều tùy thuộc vào ý chỉ của Chúa: Luther

‘Đức Chúa Trời đã hứa ban ơn cho kẻ khiêm nhường, tức là cho người nào đang than khóc và tuyệt vọng. 

‘Nhưng chẳng có ai chịu hạ mình cho đến khi người đó biết rằng sự cứu rỗi nằm ngoài khả năng, phương tiện, nỗ lực, ý chí và việc làm, mà tùy thuộc hoàn toàn vào sự chọn lựa, ý muốn và công tác của một mình Đức Chúa Trời mà thôi. 

‘Hễ người nào còn tin rằng ít ra bản thân có thể làm gì đó để được cứu rỗi, thì người đó vẫn còn tin cậy bản thân mình và chưa thực sự tuyệt vọng, vì thế người đó không hạ mình trước mặt Đức Chúa Trời, mà tưởng rằng — hay ít ra đang hy vọng hoặc khao khát — mình đã hạ mình ở một nơi, một thời điểm và một việc nào đó đã xảy ra, rồi vì thế mà người đó được cứu rỗi cho đến bây giờ. Nhưng khi ai đó hoàn toàn tin rằng mọi sự đều tùy thuộc vào ý chỉ của Đức Chúa Trời, thì người đó đã hoàn toàn tuyệt vọng và không còn lựa chọn khác cho mình nữa, nhưng trông đợi hành động của Đức Chúa Trời; thì đó là người đã tiến gần tới ân điển.’

‘God has assuredly promised his grace to the humble, that is, to those who lament and despair of themselves.

‘But no man can be thoroughly humbled until he knows that his salvation is utterly beyond his own powers, devices, endeavors, will, and works, and depends entirely on the choice, will, and work of another, namely, of God alone.

‘For as long as he is persuaded that he himself can do even the least thing toward his salvation, he retains some self-confidence and does not altogether despair of himself, and therefore he is not humbled before God, but presumes that there is–or at least hopes or desires that there may be–some place, time, and work for him, by which he may at length attain to salvation. But when a man has no doubt that everything depends on the will of God, then he completely despairs of himself and chooses nothing for himself, but waits for God to work; then he has come close to grace.’

Bondage of the Will, in Luther’s Works, 33:61-62

Đọc thêm về Ông Luther ở đây

(GSiV: Luther, Calvin, Farel, Reformation & Sanctification &

Năm Điều Duy Nhất Của Cuộc Cải Chánh (5 onlys, 5 solas)Một Người Tên Là Martin: Video)

Philadelphia Baptist Confession of Faith–part 17

Chương thứ ba: “Nguyên Chỉ Của Đức Chúa Trời”

Điều 3

Bởi Nguyên Chỉ của Đức Chúa Trời và cho việc bày tỏ sự vinh hiển của Ngài mà có những con người và thiên sứ đã được tiền định, hay chỉ định trước, cho sự sống đời để tôn vinh ân điển vinh hiển Ngài qua Đức Chúa Jêsus Christ; còn những người khác thì Ngài để họ tự ở trong tội lỗi và sự đoán phạt đối với tội lỗi của họ cũng để ngợi khen sự công bình vinh hiển của Ngài.

Tuyên Xưng Philadelphia (1742)

 (GSiV: A Few Confessions of Faith in Vietnamese)